Ngày gia đình Việt Nam - CÙNG NHÌN LẠI NHỮNG TẤM GƯƠNG HIẾU THẢO TRONG LỊCH SỬ
Từ ngàn xưa, chữ Hiếu luôn được coi trọng và đứng đầu trong tất cả những đức hạnh của con người. Người có hiếu luôn được xã hội biểu dương và là tấm gương cho con cháu noi theo. Rất nhiều câu chuyện lịch sử cũng cho thấy, người con làm tròn đạo Hiếu có thể cảm động Trời và gieo nhân duyên tốt lành cho chính mình.
1. CHỬ ĐỒNG TỬ - Tấm gương hiếu hạnh lưu truyền muôn đời
Tại Việt Nam có một câu chuyện rất nổi tiếng về tấm gương hiếu hạnh được lưu truyền cho tới hôm nay, đó là câu chuyện về Chử Đồng Tử. Tương truyền Chử Đồng Tử sinh ra trong nghèo khó, hai cha con chỉ có một chiếc khố dùng chung. Trước khi mất, Chử Cù Vân dặn con trai giữ lại khố nhưng Chử Đồng Tử không nỡ để cha ở trần hạ táng nên chôn chiếc khố cùng cha. Lòng hiếu thảo của ông có lẽ là bài học đáng suy ngẫm cho những người trẻ vẫn đang vô tư đòi hỏi sự hy sinh từ bậc sinh thành. Theo “Lĩnh Nam Chính Quái” của Vũ Quỳnh – Kiều Phú, Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Vi Vân tại Chử Xá huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Văn Đức, huyện Gia Lâm). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố che thân phải thay nhau mà mặc. Lúc già ốm, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn. Thời ấy vua Hùng Vương thứ XVIII có người con gái tên là Tiên Dung, đã đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống đàn sáo. lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ ẩn náu của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng. Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo, Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp Sư Tăng Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học Đạo. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”. Về nhà, Chử Đồng Tử giảng lại đạo Phật cho vợ nghe. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học Đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy nơi đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng. Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung – Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn. Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Lương… Câu chuyện được lưu truyền hậu thế đã minh chứng rằng, khi người con biết lấy hiếu nghĩa làm đầu thì cũng như tích được phúc phận và tạo tương lai tốt đẹp cho chính mình. 2. NGUYỄN TRÃI - Tấm gương trung hiếu vẹn toàn |
Nguyễn Trãi là tấm gương trung hiếu vẹn toàn trong lịch sử nước ta. Khi cha là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt, Nguyễn Trãi đi theo cha đến ải Nam Quan. Nguyễn Phi Khanh khuyên con trở về, mưu nghiệp lớn chống Minh. Nghe lời cha dặn, Nguyễn Trãi nếm mật nằm gai, bày mưu tính kế, góp phần quan trọng giúp nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi. Câu chuyện của ông dạy người trẻ rằng, nỗ lực thành công cũng là cách đền đáp cha mẹ. Nguyễn Phi Khanh sinh năm Bính Thân 1356 tại làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (sau đổi thành Phượng Nhãn), lộ Lạng Giang (ngày nay thuộc Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Tên thật là Nguyễn Ứng Long, lớn lên rời quê đến làng Ngọc Ổi, huyện Trường Phúc, châu Thượng Phúc, lộ Đông Đô, xứ Sơn Nam Thượng (ngày nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội) Nguyễn Phi Khanh xuất thân nghèo khổ, nhưng có tài, ông nổi tiếng là hay chữ, nên được quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (1326 – 1390) cho mời đến tư dinh làm gia sư kèm cặp con gái trong nhà. Có lẽ thầy đồ Nguyễn Ứng Long không lớn tuổi hơn cô học trò Trần Thị Thái, do đó trong lúc nghe giảng bài, có lần cô mới dám làm thơ quốc âm để trêu ghẹo thầy. Chuyện này cũng là lẽ thường tình, thầy trò cùng đang độ tuổi thanh xuân, nên tỏ ra quyến luyến cũng là điều dễ hiểu, mối quan hệ này ngày càng khăng khít, chẳng bao lâu cô học trò Trần Thị Thái có mang, Nguyễn Ứng Long sợ tai họa ập xuống đầu, nên liền bỏ trốn. Quan Tư đồ Trần nguyên Đán biết chuyện này, liền cho người tìm Nguyễn Ứng Long về và gả con gái cho. Cảm kích trước thái độ hào hiệp của bố vợ, Nguyễn Ứng Long ngày càng ra sức học tập, và đến khoa thi năm đó, khoa thi năm Giáp Dần 1374, Nguyễn Ứng Long thi đỗ Thái Học Sinh (Tiến sỹ), nhưng do quy định khắt khe của triều đình nhà Trần, con nhà thường dân mà lấy con gái của hoàng tộc thì không được trọng dụng. Dù có tài năng nhưng không được vua Trần Duệ Tông (1336 – 1377) trọng dụng, nên Nguyễn Ứng Long liền trở về quê nhà dạy học ở làng Ngọc Ổi, sau này học trò ở làng Ngọc Ổi nhớ ơn ông nên mới đổi tên làng là Nhị Khê (hiệu của Nguyễn Ứng Long). Đến năm Canh Thân 1380, mối tình giữa Nguyễn Ứng Long với tiểu thư Trần Thị Thái, sinh người con thứ hai đặt tên Nguyễn Trãi. Năm Ất Sửu 1385, Hồ Quý Ly bắt đầu chuyên quyền, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán liền cáo quan và đưa cả Trần Thị Thái cùng Nguyễn Trãi về ở động Thanh Hư, núi Côn Sơn (ngày nay thuộc Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Đến Năm Canh Ngọ 1390 khi Trần Nguyên Đán và Trần Thị Thái đều mất thì Nguyễn Trãi mới trở về làng Nhị Khê ở với cha là Nguyễn Ứng Long. Năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế (1396 – 1400), tự lập ra vương triều nhà Hồ, nhà Hồ cũng kén chọn nhân tài ra giúp nước. Nguyễn Ứng Long lúc đó mới đổi tên là Nguyễn Phi khanh ra làm quan với nhà Hồ, cũng trong năm đó, con ông là Nguyễn Trãi cũng thi đỗ Thái Học Sinh (Tiến sỹ) và cả hai cha con Nguyễn Phi Khanh đều làm quan cho triều đại nhà Hồ. Năm Đinh Hợi 1407, cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh xâm lược của vua tôi nhà Hồ bị thất bại, vua tôi nhà Hồ bị bắt giải về Trung Quốc. Bấy giờ Phi Khanh tuổi đã già yếu, buồn vì nỗi nhà tan nước vỡ, thân mình là một kẻ tù, trong lòng chua sót, và biết mình chẳng thể sống được bao lâu. Khi bị giải đến Nam Quan, ngoảnh mặt lại thấy hai con là Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi Hùng vẫn lõng thõng đi theo xe tù, ai nấy thương cha đều khóc đỏ ngầu cả hai mắt. Nguyễn Phi Khanh vốn biết người con lớn của mình là Nguyễn Trãi chí độ khác thường, sau này tất có thể làm nên rạng vẻ cho nhà, cho nước. Bấy giờ vẫy Nguyễn Trãi lại, thừa lúc váng vẻ khẽ bảo rằng: - Ta già rồi, chết cũng không còn hối hận gì nữa. Duy bình sinh ta rất ưa thích sơn thuỷ núi Bái vọng ở chốn cố hương. Vậy để một mình em con đi theo ta, hễ ta có chết thì nó nhặt lấy xương, đem về chôn ở núi ấy là đủ rồi. Còn con, ta khuyên con nên trở về. - Con là người có học có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới chính là đại hiếu. Lọ là phải cứ đi theo cha, khúc ngút ngát như đàn bà ấy mới là hiếu sao! Trãi nghe lời cha nói rất phải, từ tạ quay về, để một mình người em Phi Hùng theo cha đi sang Trung Quốc. Nguyễn Phi Khanh sang đến đất Tàu, chưa bao lâu chết ở bên ấy. Phi Hùng theo lời cha dặn, chờ đợi ở Tàu mấy năm rồi thu thập hài cốt của cha đem về táng ở núi Bái vọng, để cha được thoả nguyện ao ước trong lúc sinh bình. Còn Nguyễn Trãi đã nghe theo lời cha, từ tạ cha và em và trở về Đông Quan (Thăng Long), sau này Nguyễn Trãi đã tìm cách trốn vào vùng đất Lam Sơn (Thanh Hóa) giúp Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, và cuối cùng đã giành được thắng lợi, giành lại độc lập cho dân tộc, trở thành khai quốc công thần của triều Hậu Lê, anh hùng giải phóng dân tộc. Cái hiếu lớn nhất của người Việt Nam chính là hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nguyễn Phi Khanh đã dạy con mình là phải có hiếu với ông bà cha mẹ, cho nên khi Nguyễn Phi Khanh bị bắt, Nguyễn Trãi định theo hầu cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh bảo con mình là phải biết yêu nước, lấy tổ quốc làm trọng: “con là người có học, có tài, nên quay về tìm cách rửa nhục cho đất nước, trả thù cho cha, như thế mới là báo hiếu, đâu phải cứ theo khóc lóc là báo hiếu sao”? 3. TRẦN ANH TÔNG - Vị vua tôn trọng đạo hiếu |
Trần Anh Tông (25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là Trần Thuyên, là vị hoàng đế thứ tư của triều Trần. Ông ở ngôi từ tháng 4 năm 1293 đến tháng 4 năm 1314, rồi làm Thái thượng hoàng từ năm 1314 đến khi qua đời. Thời kỳ của ông và con ông được mệnh danh là Anh Minh Thịnh Thế. Khi mới lên nối ngôi, Trần Anh Tông thích rượu chè và thường đi chơi thâu đêm, có lần bị một số người "vô lại" ném gạch trúng đầu. Do vậy, ông bị Thượng hoàng Trần Nhân Tông quở trách rất nghiêm khắc. Từ đó Anh Tông trở nên minh mẫn hơn. Lần khác, vì say rượu, vua lỡ buổi chầu, bị thái thượng hoàng Trần Nhân Tông trách phạt. Vua quỳ gối, dâng biểu tạ tội mới được tha lỗi. Từ đó, Trần Anh Tông không uống rượu nữa, không những thế, nhà vua còn không ưa những người nghiện rượu. Dù ở ngôi cao, nhà vua vẫn tôn trọng đạo hiếu, cẩn tuân lời dạy bảo của cha. Con người, dù thành công đến đâu hay có chức vị cao đến mấy, họ vẫn là một người con, cần không quên gốc gác, cũng như công lao sinh thành của cha mẹ. |
4. TỰ ĐỨC - Vị vua duy nhất sẵn sàng dâng doi cho mẹ đánh đòn trong sử Việt
Trong gia đình Việt ngày xưa, con cái luôn hiếu thảo chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ chu đáo. Một trong những tấm gương hiếu thảo được lịch sử ca ngợi là vua Tự Đức.
Vua Tự Đức triều Nguyễn là người con hết sức có hiếu với mẹ, sẵn sàng để mẹ phạt roi khi mắc lỗi.
Lên ngôi khi 18 tuổi, suốt gần 36 năm trị vì đất nước, vua Tự Đức rất coi trọng bổn phận làm con với mẹ là Hoàng Thái hậu Từ Dụ.
Nhà vua đặt cho mình lịch làm việc cố định: Vào các ngày chẵn trong tháng, vua cùng đoàn tùy tùng vào cung Diên Thọ vấn an sức khỏe mẫu hậu, còn các ngày lẻ thì thiết triều hoặc lo công việc triều đình. Như vậy, mỗi tháng, nhà vua chầu cung 15 lần, ngự triều 15 lần, chỉ trừ khi vua đi công cán ở ngoài kinh thành hoặc yếu mệt thì mới không thực hiện bổn phận này.
Hoàng thái hậu Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách, hiểu biết rộng. Khi hoàng thái hậu bảo ban câu gì hay, vua Tự̣ Đức liền biên chép ngay vào một quyển gọi là "Từ Huấn Lục". Cuốn sách này vua luôn mang trong mình, khi rảnh lại mang ra nghiền ngẫm.
Từ Dụ Hoàng thái hậu truyện trong bộ Đại Nam liệt truyện viết: “Đức vua phụng sự mẹ chí hiếu lắm. Bà thường muốn nghe đọc sách sử, vua thuận theo ý bà. Chẳng có khi nào dám trái ngược, chừng nào mẹ hết muốn nghe, bảo thôi đọc thì vua mới thôi. Chẳng những việc đọc sách sử mà bất cứ chuyện gì, vua cũng nhất nhất thừa theo ý mẹ”.
Vua Tự Đức. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. |
Một câu chuyện được sách sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện ghi lại, cho thấy vua Tự Đức “răm rắp” nghe lời mẹ.
Đó là một ngày rảnh việc nước, vua đi ngự săn bắn tại rừng Thuận Trực. Gặp phải nước lụt, trong khi đó còn hai ngày nữa thì đến ngày giỗ vua cha Thiệu Trị mà vua vẫn chưa trở về. Đức Từ Dụ nóng ruột sai quan đại thần Nguyễn Tri Phương đi tìm và rước nhà vua về.
Nguyễn Tri Phương phụng lệnh lên đường, đi được nửa đường thì gặp thuyền ngự đang chèo lên, do dòng nước chảy mạnh không chèo nhanh được nên gần tối thuyền ngự mới tới bến.
Vừa tới hoàng cung, vua liền lên kiệu đi thẳng sang cung Diên Thọ để lạy xin chịu tội dù khi đó trời vẫn đang đổ mưa. Nhà vua dâng lên một chiếc roi mây đặt trong mâm son, để trên ghế rồi nằm phục xuống sàn xin chịu đòn. Đức Từ Dũ ngồi xoay mặt vào màn không nói lời nào, một hồi lâu, bà mới xoay mặt ra lấy tay hất cái roi đi.
Tuy không phạt roi, hoàng thái hậu dặn nhà vua phải ban thưởng cho quan quân cực khổ đi hầu ngự, rồi sáng mai vào hầu lạy. Lúc đó, vua Tự Đức mới đứng dậy, lạy tạ lui về. Ngay đêm hôm đó, nghe lời của mẫu hậu, vua Tự Đức ban thưởng cho quan quân đi hầu ngự.
Câu chuyện này đã được dựng thành tích cải lương Tự Đức dâng roi, được nhân dân rất yêu thích.
Tượng Hoàng thái hậu Từ Dụ tại Bệnh viện Từ Dũ, TP.HCM. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. |
Một lần khác, vua Tự Đức mải vui ở cửa Thuận An nên bỏ buổi ngự triều. Hoàng thái hậu giận lắm. Lúc về, vua có đến xin lỗi mẹ, nhưng bà sai người đóng cửa cung Diên Thọ không cho vào. Nhà vua phải đứng chờ cả giờ, sau bà mới cho gọi vào và dạy: “Nước đang có nhiều việc rối, hoàng đế đã không lo lắng mà còn vui chơi được sao? Thôi, hãy mau về triều cùng các quan bàn quốc kế”.
Bà từng răn dạy vua Tự Đức: “Biết lỗi với ta chỉ là phụ, biết lỗi với dân mới là chính”. Nghe lời dạy bảo của bà, Tự Đức không chỉ là vị vua hiếu thảo, mà luôn thể hiện tinh thần yêu nước và luôn siêng năng việc triều chính cũng như không ngừng học tập hàng ngày.