ĐOÀN TỬ QUANG - Tấm gương sáng ngời về lòng hiếu thảo và hiếu học

21 lần đi thi, 49 tuổi đỗ Tú tài lần thứ nhất, 66 tuổi đỗ Tú tài lần thứ hai, 82 tuổi mới đậu Cử nhân, thọ 110 tuổi và sống qua 13 đời vua triều Nguyễn, đó là những điều đặc biệt về Đoàn Tử Quang - thì sinh đặc biệt nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Một tấm gương sáng ngời về lòng hiếu thảo và tinh thần hiếu học cho đời sau.

 

Con đường khoa cử ghập ghềnh

Đoàn Tử Quang sinh năm 1818 đời vua Gia Long, quê ở làng Phụng Đạt, xã Phụng Công, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh). Mồ côi cha từ nhỏ, Đoàn Tử Quang lớn lên dưới sự dạy bảo của người mẹ đã chồng từ năm 17 tuổi, nhưng nhất quyết không đi bước nữa mà ở lại thủ tiết, thờ chồng nuôi con và đã được triều đình ban biển "Tiết hạnh khả phong".

Đoàn Tử Quang là người sáng dạ, học rất giỏi, từ nhỏ ông đã được mẹ dạy bảo và khích lệ theo đòi cử nghiệp để lập công danh và giúp đời, nhưng "thi phận" mà con đường khoa cử gặp nhiều trắc trở.

Mãi tới năm 49 tuổi, ông mới lần đầu tiên thi đỗ Tú tài và cũng chỉ đỗ Tú tài lần thứ hai khi đã 66 tuổi.

Đoàn Tử Quang vốn tên Đoàn Tự Cận. Sau nhiều lần lều chõng đi thi mà chỉ hai lần đỗ tú tài, nên cụ cho rằng do cái tên mình như bị trời giam hãm (tự trong chữ Hán như có mái che ở trên không nhìn được cao xa; cận tức gần), nên đã thay đổi bằng cách “tháo cái mái” trên đầu chữ “Tự” thành chữ “Tử” (nghĩa là con), đồng thời đổi tên Cận thành Quang (sáng), như một sự nhận lãnh trách nhiệm xây dựng họ Đoàn Tử theo nghiệp thi thư. Thế nhưng nhiều khoa thi tiếp theo vận may vẫn chưa mỉm cười với mình nên đến tuổi 82, cụ Đoàn Tử Quang không muốn đi thi nữa vì tuổi đã quá cao, song vì muốn báo hiếu với mẹ già mà quyết mang lều chõng thêm một phen nữa.

Thi sinh lớn tuổi nhất thi Hương

Tại khoa thi hương năm Canh Tí 1900, cả trường thi Nghệ An đều ngạc nhiên trước một trường hợp gần như chưa từng có trong lịch sử khoa cử Việt Nam: một thí sinh 82 tuổi, râu tóc bạc phơ bước vào trường thi đua tài cùng khoảng 4.000 mái đầu xanh đáng hàng con cháu.

Số là đầu năm Canh Tý 1900, bà Nguyễn Thị Sen, vợ ông vừa qua đời. Theo quy định của triều đình, hai con trai là Đoàn Tử Tiến và Đòa Tử Thiều phải đoạn tang ba năm mới được đi thi. Cả làng Thượng Đạt năm ấy không có ai đi thi nên các vị chức sắc trong làng đến xin cụ ứng thí để làng còn mở mày mở mặt. Cụ lắc đầu không định đi thi, vì tuổi quá cao, sức đã yếu.

Không thuyết phục được ông, các chức sắc phải đến khuyên nhủ mẹ của Đoàn Tử Quang là cụ Lê Thị Nậm năm ấy đã 97 tuổi để bà cụ hối thúc con phải đi thi. Vốn là người hiếu nghĩa, ông vâng lời mẹ, ông đã thay hai con quẩy lều chõng lên đường đi thi. Sau này trong lễ nhận bằng của triều đình, cụ Quang đã trả lời lý do đi thi với các quan viên rằng: “Lúc mẹ lão mười bảy tuổi thì trời cướp mất cha lão. Mẹ lão thủ tiết nuôi con; lênh đênh cơ khổ cho đến lúc thành lập. Vào khoảng thời Tự Đức, được phong Tiết phụ thứ hạng và được thưởng bạc mười lăm lượng. Mẹ lão cảm ân chảy nước mắt. Lão đậu tú tài hai lần mà vẫn xui lão gắng học; bảo lão rằng ta từ khi làm vợ nhà mày, chưa từng thấy cha mày một ngày nào mà không đọc sách. Cha có chí chưa thành, mày cứ học đến già khiến cho con cháu nối đó mà học để thành được chí cha mày. Lão có ngày nay, hết thảy nhờ công dạy của mẹ lão!”.

Chánh Chủ khảo kỳ thi hương trường Nghệ An năm ấy là Khiếu Năng Tĩnh (Tiến sĩ khoa Canh Thìn, Tự Đức thứ 33, năm 1880) cùng các quan trường thấy ông đã già nhưng vẫn bền chí học hành thi cử nên đều tỏ lòng kính phục, nhưng cũng lo lắng cho sức khỏe của ông. Nhiều người cho rằng Ông khó qua nổi kỳ thi đầu tiên. Thế nhưng các quan trường đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác vì bài làm của ông sau đó khá hay và chữ viết rõ ràng, ngay ngắn.

Qua 4 kỳ thi, bài của Ông chỉ xếp sau Phan Bội Châu. Do phạm một sơ suất nhỏ trong quy định ngặt nghèo của trường thi thời đó nên ông bị đánh hỏng, song vì bài làm xuất sắc và cũng bởi cảm phục ý chí bền bỉ hiếm có xưa nay nên Chánh Chủ khảo cùng các quan trường đã thảo tấu xin triều đình ban cho ông đỗ. Nhờ đó ông được lấy đỗ song chỉ được xếp thứ 29/30 người trúng tuyển khoa thi này.

Câu chuyện trong trường thi

Việc một ông lão 82 tuổi dự thi đã được Chánh Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và Phó Chủ khảo Mai Khắc Đôn phải ghi chép lại thành chuyện dưới đầu đề "Mẩu chuyện hay được ghi lại ở Trường Thi" ở trong sách "Khoa Canh Tý" như sau:

Ông lão vào tôi rời khỏi ghế, cầm tay ông lão cùng đi mà rằng "Đẹp làm sao! thọ làm sao!". Chí khí cao mà kiên định vậy! "xin hỏi mắt cụ có bị mờ không"? Ông lão trả lời "có bị mờ". Tôi lại hỏi "Chân gối cụ có bị mỏi không?". Ông lão đáp: "còn có thể đi bộ, chạy, lễ, bái, đưa, đón được".

Ông lão mang ống quyển vào, xét số, hạ lều, xong ngồi ngay ngắn ở giữa chiếu của mình. Trời về chiều khi đã vài ba chục thí sinh nộp bài thì ông lão vai mang ống quyển, tay kéo xe lều chõng lọc cọc, cùng các thí sinh kẻ trước người sau ra về...

Vào phúc hạch, viên đề tuyển đưa danh sách thông báo ra ngoài. Tên ông lão có trong số đó. Đến khi đưa quyển vào phúc duyệt, không hề bài nào có chữ đậm nhạt không đúng kiểu hoặc bị nghiêng đổ. Sau khi khớp phách nên biết quyển bài của ông lão về tài năng, ưu; thơ phú, ưu; Văn sách, thứ; phúc hạch, trung bình.....

Ngày xướng danh

Gọi đến tên, ông "dạ" và đi vào, đầu tóc bạc phơ. Các quan khách, quan tỉnh cầm tay khen ngợi hồi lâu. Khi được cấp mũ áo ra trình diện, bái ân (lạy ơn vua), bái tứ (lạy tạ được nhận lộc vua), bái yến (lạy tạ khi được ngồi vào bàn tiệc), không hề thấy ông tỏ ra xiêu vẹo, bạc nhược. Yến lão sắp xong ông lấy một ít trong số những thức ăn có thể lấy được, cho vào trong tay áo thụng. Người bên cạnh cười cho rằng ông lão chắc có nhiều cháu chắt, muốn lấy về chia cho chúng cùng vui. Ông chỉ tủm tỉm cười mà không nói. Bởi họ đã nhầm, cụ lấy lộc vua về dâng mẹ.

Ảnh chụp Đoàn Tử Quang lúc 106 tuổi (nguồn: Internet)

 

Sắp về vinh qui, ông vào lạy tạ quan trường. Quan trường nâng dậy không giám nhận lạy của ông mà rằng: "Xin hỏi cụ có người con nào cùng thi không?". Ông đáp: "Thưa có, có ba đứa con cũng đã đi thi ở nhị trường đều đạt trung bình. Vì mùa xuân vừa qua mẹ chúng mất nên không thi tiếp nữa. Lão còn mẹ, lão thi cho mẹ yên lòng".

Quan trường lại hỏi thăm tuổi thọ bà mẹ. Ông trả lời với giọng xúc động: "Chỉ hai năm nữa là vừa chẵn 100". Khi mẹ tôi 17, trời đoạt mệnh cha tôi. Mẹ tôi thủ tiết thờ chồng, nuôi con, đinh ninh con trẻ mồ côi sẽ đỗ... cho đến khi tôi thành niên, vua Tự Đức xuống chiếu ban khen những người đàn bà trinh tiết. Mẹ tôi được thưởng 15 lạng bạc. mẹ tôi bảo tôi: "Từ ngày mẹ về làm dâu ở gia đình này, mẹ chưa từng thấy cha con bỏ đọc sách một ngày nào, có chí mà chưa có toại. Con cần phải học làm gương cho con cháu nối đời noi theo"...

Khi trở về "Vinh quy bái tổ", Tổng đốc Nghệ An khi ấy là Đào Tấn đã cảm tác bài thơ tặng ông:

Khá lắm Hương sơn Đoàn Tú tài

Xuân xanh vừa đúng tám mươi hai

Trường văn múa bút râu như mác

Quế đỏ cành thơm cướp vác vai

Quế đỏ cành thơm cướp vác vai

Ung dung chống gậy tới Nam cai

Nhà huyên tuổi hạc chín mươi tám

Giờ thấy con ta đắc ý rồi. 

Thủ khoa kỳ thi đó là Phan Bội Châu, đã cảm phục và sáng tác bài ca tặng ông và đôi câu đối:

Xảo thật trời kia, xảo thật nguyệt kia, hẵng đem mùi cay đắng thử khách tài hoa, đã toan phụ tám mươi năm nợ nần thư kiếm;

Lạ thay người ấy, sướng thay người ấy, muốn ôm mớ văn chương về trả tạo hóa, mà lại xem muôn ngàn dặm cái phong vân.

Làm quan

Dưới triều Nguyễn, theo quy định, các quan tới tuổi 65 sẽ hồi hưu. Song để đền đáp và khuyến khích ý chí và nghị lực phi thường của ông nên triều đình vẫn đặc cách bổ dụng làm quan. Từ năm 1911 - 1913, ông được cử làm chức Huấn đạo huyện Hương Sơn, rồi huấn đạo huyện Can Lộc. Năm 85 tuổi, ông xin về hưu để phụng dưỡng mẹ già khi ấy đã trên 100 tuổi. Khi Ông thượng thọ 106 tuổi (1924), triều đình đã phong hàm Hàn lâm viện thị độc tặng ông.

Ông mất vào năm 1928, thọ 110 tuổi. Cả cuộc đời ông từ khi sinh ra vào đời Gia Long - vua đầu tiên nhà Nguyễn đến khi mất vào đời Bảo Đại - vua cuối cùng của triều đại này đã trải qua 13 đời vua, chứng kiến bao thăng trầm của vẫn nước trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ông là trí thức khoa bảng có tuổi thọ cao nhất trong lịch sử Việt Nam bên cạnh Tiến sĩ Nguyễn Xuân Chính thọ 107 tuổi và tiến sĩ Nguyễn Như Đổ thọ 102 tuổi). Nghị lực học tập suốt đời, không kể tuổi tác của ông mãi là tấm gương sáng để hậu thế noi theo.

“Thấy tuổi già tưởng văn non mà thương, hóa ra những món tưởng non lại thành cứng; thấy già tưởng chữ viết lòe nhòe xiên xẹo mà chính ra lại cứng cáp tốt tươi. Tưởng bênh cho may đậu tú tài mà lại tự mình sắp đậu giải nguyên. Tưởng tám mươi hai tuổi là già lắm, mà còn mẹ chín mươi tám tuổi… Tưởng vì công danh mà đeo đuổi khoa trường mà chính ra là muốn cho vui lòng mẹ”.
Học giả Hoàng Xuân Hãn viết về 
thí sinh đặc biệt Đoàn Tử Quang, đăng trên báo Thanh Nghị năm 1944 như thế.
Tác giả: Bùi Huy Hoàng (ST)
Nguồn:Wikipedia và Internet Sao chép liên kết
Bài tin liên quan
Chính phủ điện tử
Tin đọc nhiều
Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 47
Hôm qua : 270
Tháng 12 : 3.317
Năm 2024 : 236.358